Chi phí điều trị trung bình/năm ung thư cổ tử cung giai đoạn I khoảng 89,8 triệu đồng, nếu BHYT trả tiền tầm soát phát hiện sớm, người bệnh tiết kiệm 47-48,6 triệu.
Bệnh tularemia là một bệnh sốt do trực khuẩn gram âm Francisella tularensis gây ra; nó có thể giống như sốt thương hàn. Triệu chứng là một tổn thương loét cục bộ ban đầu, bệnh hạch bạch huyết vùng, triệu chứng toàn thân và thỉnh thoảng, viêm phổi không điển hình.
Lỵ trực khuẩn là một nhiễm trùng ruột cấp tính do loài Shigella gây ra. Các triệu chứng bao gồm sốt, buồn nôn, nôn mửa, mót rặn và tiêu chảy thường có máu.
Salmonellae không thương hàn chủ yếu là nguyên nhân gây ra viêm dạ dày ruột, nhiễm khuẩn huyết và nhiễm trùng khu trú. Các triệu chứng có thể là tiêu chảy, sốt cao với mệt lả hoặc triệu chứng nhiễm trùng khu trú.
Chi Salmonella được chia thành 2 loài, S. enterica và S. bongori, bao gồm hơn 2500 kiểu huyết thanh đã biết. Một số loại typ huyết thanh đã được đặt tên. Trong nhiều trường hợp, việc sử dụng thông thường đôi khi rút ngắn tên khoa học để chỉ bao gồm chi và serotype; ví dụ, S. enterica, phân loài enterica, serotype Typhi ngắn hơn Salmonella Typhi.
Pseudomonas aeruginosa và các thành viên khác của nhóm trực khuẩn gram âm này là các mầm bệnh cơ hội thường gây ra các bệnh nhiễm trùng bệnh viện, đặc biệt là ở các bệnh nhân thở máy, các bệnh nhân bị bỏng và bệnh nhân hạ bạch cầu trung tính hoặc suy nhược mạn tính.
Bệnh dịch hạch do trực khuẩn gram âm gây ra Yersinia pestis. Các triệu chứng là bệnh viêm phổi nặng hoặc hạch to, ấn đau với sốt cao, thường tiến triển thành nhiễm khuẩn huyết.
Ho gà là một bệnh dễ lây lan xảy ra chủ yếu ở trẻ em và thanh thiếu niên và do trực khuẩn gram âm Bordetella pertussis gây ra. Các triệu chứng ban đầu của nhiễm trùng đường hô hấp trên không đặc hiệu, sau đó là ho dữ dội hoặc kiểu co thắt, thường kết thúc bằng thở rít, âm độ cao, như tiếng gà (cơn ho gà).
Melioidosis là một bệnh nhiễm trùng do trực khuẩn gram âm Burkholderia (trước đây là Pseudomonas) pseudomallei gây ra. Các biểu hiện bao gồm viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết và nhiễm trùng khu trú ở các cơ quan khác nhau.
Trực khuẩn gram âm Klebsiella, Enterobacter và Serratia có liên quan mật thiết với hệ vi khuẩn đường ruột bình thường mà hiếm khi gây bệnh ở những người bình thường.
Nhóm HACEK (loài Haemophilus, Aggregatibacter actinomycetemcomitans, Cardiobacterium hominis, Eikenella corrodens, Kingella kingae) bao gồm các sinh vật gram âm có độc lực yếu, chủ yếu gây viêm nội tâm mạc. Điều trị bằng thuốc kháng sinh.
Loài trực khuẩn gram âm Haemophilus gây nhiều nhiễm trùng nhẹ và nghiêm trọng, bao gồm vãng khuẩn huyết, viêm màng não, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa, viêm mô tế bào và viêm thanh quản.
Chi phí điều trị trung bình/năm ung thư cổ tử cung giai đoạn I khoảng 89,8 triệu đồng, nếu BHYT trả tiền tầm soát phát hiện sớm, người bệnh tiết kiệm 47-48,6 triệu.
Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 200.000 người bị đột quỵ. Trung bình cứ 6 người thì một người có nguy cơ đột quỵ. Bệnh này có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, chủ yếu là người từ 55 tuổi trở lên. Mặc dù vậy, những năm gần đây, tỷ lệ đột quỵ ở người trẻ ngày càng gia tăng, chiếm 10-15%.
Tính đến hết tuần 23, toàn khu vực phía Nam ghi nhận 9.028 ca mắc tay chân miệng , trong đó có 4 ca tử vong với chẩn đoán Bệnh tay chân miệng độ 4 và có xét nghiệm Enterovirus 71 (EV71) dương tính.
Thất dụng là mất khả năng thực hiện các động tác có chủ đích vốn đã biết trước đây, cho dù thể lực cho phép và mong muốn của người bệnh, do một tổn thương não. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường bao gồm trắc nghiệm thần kinh tâm lý, cùng với chẩn đoán hình ảnh thần kinh (ví dụ: CT, MRI) để xác định nguyên nhân. Tiên lượng phụ thuộc vào nguyên nhân và mức độ tổn thương và tuổi bệnh nhân. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng liệu pháp vật lý và vận động trị liệu có thể cải thiện một cách khiêm tốn hoạt động chức năng và sự an toàn của bệnh nhân.
Thất ngôn là rối loạn chức năng ngôn ngữ có thể liên quan đến giảm khả năng hiểu hoặc biểu đạt các từ hoặc ý nghĩa tương đương không bằng lời của từ. Nó là hậu quả của sự rối loạn chức năng của các trung tâm ngôn ngữ ở vỏ não và hạch nền hoặc các đường dẫn truyền trong chất trắng kết nối chúng. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường bao gồm trắc nghiệm thần kinh tâm lý, chẩn đoán hình ảnh thần kinh (CT, MRI) để xác định nguyên nhân. Tiên lượng phụ thuộc vào nguyên nhân, mức độ tổn thương và tuổi bệnh nhân. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng liệu pháp ngôn ngữ có thể thúc đẩy quá trình hồi phục.
Mất trí nhớ toàn bộ thoáng qua là quên thuận chiều và ngược chiều, khởi phát đột ngột và kéo dài 24 giờ. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng nhưng bao gồm xét nghiệm và chụp CT, MRI, hoặc cả hai. Mất trí nhớ thường tự hồi phục một cách tự phát nhưng có thể tái diễn. Không có điều trị đặc hiệu, nhưng những bất thường tiềm ẩn cần được điều chỉnh.
Viêm màng ngoài tim là tình trạng viêm màng ngoài tim, thường có ứ dịch trong khoang màng ngoài tim. Viêm màng ngoài tim có thể do nhiều nguyên nhân (như nhiễm trùng, nhồi máu cơ tim, chấn thương, u, rối loạn chuyển hóa), nhưng thường mang tính chất tự phát.
Viêm cơ tim là tình trạng viêm đi kèm theo hoại tử các tế bào cơ tim. Viêm cơ tim có thể do nhiều nguyên nhân (như nhiễm trùng, chất gây độc tim, thuốc, và các bệnh hệ thống như sarcoidosis), nhưng thường là tự phát.
Dị dạng động tĩnh mạch (AVMs) là các đám rối mạch máu bị giãn, trong đó các động mạch dẫn máu trực tiếp vào tĩnh mạch. AVM thường gặp nhất ở chỗ nối của các động mạch não, thường là trong nhu mô não vùng trán - đỉnh, thùy trán, tiểu não bên, hoặc thùy chẩm. AVM cũng có thể gặp ở màng cứng.